Bài 4:
KIẾN TRÚC MẠNG
1. Các kiểu giao kết
1.1.
Kiểu điểm - điểm (Point to Point)
Đường truyền nối từng cặp node lại
với nhau theo một hình học xác định. Một kênh truyền vật lý sẽ được thiết lập
giữa 2 node có nhu cầu trao đổi thông tin. Chức năng các node trung gian: tiếp
nhận, lưu trữ tạm thời và gửi tiếp thông tin sang node tiếp theo khi đường truyền
rỗi. Cấu trúc điểm- điểm gọi là mạng lưu và gửi tiếp (Store - and - Forward).
Ưu điểm là ít khả năng đụng độ
thông tin (Collision).
Nhược điểm của nó là hiệu suất sử
dụng đường truyền thấp. Chiếm dụng nhiều tài nguyên, độ trễ lớn, tiêu tốn nhiều
thời gian để thiết lập đường truyền và xử lý tại các node. Vì vậy tốc độ trao đổi thông tin thấp.
1.2.
Kiểu quảng bá (Point to Multipoint, Broadcasting)
Tất cả các node cùng truy nhập
chung trên một đường truyền vật lý. Một thông điệp được truyền đi từ một node
nào đó sẽ được tất cả các node còn lại tiếp nhận và kiểm tra địa chỉ đích trong
thông điệp có phải của nó hay không. Cần thiết phải có cơ chế để giải quyết vấn
đề đụng độ thông tin (Collision) hay tắc nghẽn thông tin trên đường truyền trong
các mạng hình BUS và hình RING. Các mạng có cấu trúc quảng bá được phân chia
thành hai loại: quảng bá tĩnh và quảng bá động phụ thuộc vào việc cấp phát đường
truyền cho các node. Trong quảng bá động có quảng bá động tập trung và quảng bá
động phân tán. Quảng bá tĩnh: Chia thời gian thành nhiều khoảng rời rạc và dùng
cơ chế quay vòng (Round Robin) để cấp phát đường truyền. Các node có quyền được
truy nhập khi đến cửa thời gian của nó. Quảng bá động tập trung: Một thiết bị
trung gian có chức năng tiếp nhận yêu cầu liên lạc và cấp phát đường truyền cho
các node. Kiểu cấp phát này giảm được tối đa thời gian chết của đường truyền,
hiệu suất kênh truyền cao, nhưng thiết kế phức tạp và khó khăn. Quảng bá động
phân tán: Không có bộ trung gian, các node tự quyết định có nên hay không nên
truy nhập đường truyền, phụ thuộc vào trạng thái của mạng.
2. Kiến trúc (Tôpô) vật lý
2.1.
Mạng dạng đường truyền chung Bus
Trong mạng trục tất cả các trạm
phân chia một đường truyền chung (bus).
Đường truyền chính được giới hạn hai đầu bằng hai đầu nối đặc biệt gọi là
terminator. Mỗi trạm được nối với trục
chính qua một đầu nối chữ T
(T-connector) hoặc một thiết bị thu phát (transceiver).
-
Khi một trạm truyền dữ liệu thì tín hiệu được quảng bá
trên 2 chiều của Bus (tất cả các trạm khác đều có thể nhận tín hiệu)
2.2.
Mạng dạng sao (Star topology).
Mạng hình sao: Mạng hình sao có tất
cả các trạm được kết nối với một thiết
bị trung tâm có nhiệm vụ nhận tín hiệu từ các trạm
và chuyển đến trạm đích Độ dài đường
truyền nối một trạm với thiết bị trung tâm bị hạn chế (trong vòng 100m, với
công nghệ hiện nay).
- Thiết bị trung tâm có thể là Hub, Switch, router
Vai trò của thiết bị trung tâm là thực hiện việc
“bắt tay” giữa các trạm cần trao đổi thông tin với nhau, thiết lập các liên kết
điểm - điểm giữa chúng.
2.3 Mạng dạng vòng
Trên mạng hình vòng tín hiệu được
truyền đi trên vòng theo một chiều duy nhất. Mỗi trạm của mạng được nối với vòng qua một bộ chuyển tiếp
(repeater) do đó cần có giao thức điều khiển việc cấp phát quyền được truyền dữ
liệu trên vòng mạng cho trạm có nhu cầu.
Mạng hình vòng có ưu nhược điểm tương tự mạng hình sao, tuy nhiên mạng
hình vòng đòi hỏi giao thức truy nhập mạng
phức tạp hơn mạng hình sao.
2.4 Mạng
dạng kết nối hỗn hợp
Là sự phối hợp các kiểu kết nối khác nhau
3. Truyền dữ liệu
Khi được cài đặt vào trong mạng,
các máy trạm phải tuân theo những quy tắc định trước để có thể sử dụng đường
truyền, đó là phương thức truy nhập. Phương thức truy nhập được định nghĩa là
các thủ tục điều hướng trạm làm việc làm
thế nào và lúc nào có thể thâm nhập vào đường dây cáp để gửi hay nhận các gói
thông tin.
Có 3 phương thức cơ bản:
3.1.
Phương pháp CSMA/CD (Carrier Sense
Multiple Access with Collision Detection)
- CSMA/CD
(Carrier Sense Multiple Access with Collision Detection) Phương pháp đa truy nhập
sử dụng sóng mang có phát hiện xung đột
- Phương pháp này sử dụng cho topo dạng tuyến tính,
trong đó tất cả các trạm của mạng đều được nối trực tiếp vào bus. Mọi trạm đều
có thể truy nhập vào bus chung (đa truy nhập) một cách ngẫu nhiên và do vậy rất
có thể dẫn đến xung đột (hai hoặc nhiều trạm đồng thời truyền dữ liệu). Dữ liệu
được truyền trên mạng theo một khuôn dạng đã định sẵn trong đó có một vùng
thông tin điều khiển chứa địa chỉ trạm đích
- Phương pháp CSMA/CD là phương pháp cải tiến từ phương
pháp CSMA hay còn gọi là LBT (Listen Before Talk - Nghe trước khi nói). Tư tưởng
của nó: một trạm cần truyền dữ liệu trước hết phải “nghe” xem đường truyền đang
rỗi hay bận. Nếu rỗi thì truyền dữ liệu đi theo khuôn dạng đã quy định trước.
Ngược lai, nếu bận (tức là đã có dữ liệu khác) thì trạm phải thực hiện một
trong 3 giải thuật sau (gọi là giải thuật “kiên nhẫn”)
+
Tạm “rút lui” chờ đợi trong một thời gian ngẫu nhiên nào đó rồi lại bắt đầu
nghe đường truyền (Non persistent - không kiên trì)
+
Tiếp tục “nghe” đến khi đường truyền rỗi thì truyền dữ liệu đi với xác suất = 1
+
Tiếp tục “nghe” đến khi đường truyền rỗi thì truyền đi với xác suất p xác định
trước (0 < p <1)
- Với giải thuật 1 có hiệu quả trong việc tránh xung đột
vì hai trạm cần truyền khi thấy đường truyền bận sẽ cùng “rút lui” chờ đợi
trong các thời đoạn ngẫu nhiên khác.à Nhược điểm có thể có
thời gian chết sau mỗi cuộc truyền
- Giải thuật 2: khắc phục nhược điểm có thời gian chết bằng
cách cho phép một trạm có thể truyền ngay sau khi một cuộc truyền kết thúc. à Nhược điểm: Nếu lúc
đó có hơn một trạm đang đợi thì khả năng xảy ra xung đột là rất cao
- Giải thuật 3: Trung hoà giữa hai giải thuật trên. Với
giá trị p lựa chọn hợp lý có thể tối thiểu hoá được cả khả năng xung đột lẫn thời
gian chết của đường truyền. Xảy ra xung đột là do độ trễ của đường truyền dẫn:
một trạm truyền dữ liệu đi rồi nhưng do độ trễ đường truyền nên một trạm khác
lúc đó đang nghe đường truyền sẽ tưởng là rỗi và cứ thể truyền dữ liệu đi à xung đột. Nguyên nhân
xảy ra xung đột của phương pháp này là các trạm chỉ “nghe trước khi nói” mà
không “nghe trong khi nói” do vậy trong thực tế có xảy ra xung đột mà không biết,
vẫn cứ tiếp tục truyền dữ liệu đi à gây ra chiếm dụng đường
truyền một cách vô ích
- Để có thể phát hiện xung đột, cải tiến thành phương
pháp CSMA/CD (LWT - Listen While Talk -
nghe trong khi nói) tức là bổ xung thêm các quy tắc:
- Khi một trạm đang truyền, nó vẫn tiếp tục nghe đường
truyền. Nếu phát hiện thấy xung đột thì nó ngừng ngay việc truyền nhưng vẫn tiếp
tục gửi sóng mang thêm một thời gian nữa để đảm bảo rằng tất cả các trạm
trên mạng đều có thể nghe được sự kiện
xung đột đó.
- Sau đó trạm chờ đợi một thời gian ngẫu nhiên nào đó
rồi thử truyền lại theo các quy tắc của CSMA
à Rõ ràng với CSMA/CD
thời gian chiếm dụng đường truyền vô ích giảm xuống bằng thời gian để phát hiện
xung đột. CSMA/CD cũng sử dụng một trong 3 giải thuật “kiên nhẫn” ở trên, trong
đó giải thuật 2 được ưa dùng hơn cả.
3.2.
Phương pháp TOKEN BUS
-
Phương pháp truy nhập có điểu khiển dùng kỹ thuật “chuyển
thẻ bài” để cấp phát quyền truy nhập đường truyền. Thẻ bài (Token) là một đơn vị
dữ liệu đặc biệt, có kích thước và có chứa các thông tin điều khiển trong các
khuôn dạng
-
Nguyên lý: Để cấp
phát quyền truy nhập đường truyền cho các trạm đang có nhu cầu truyền dữ liệu,một
thẻ bài được lưu chuyển trên một vòng logic thiết lập bởi các trạm đó. Khi một
trạm nhận được thẻ bài thì nó có quyền sử dụng đường truyền trong một thời gian
định trước. Trong thời gian đó nó có thể truyền một hoặc nhiều đơn vị dữ liệu.
Khi đã hết dữ liệu hay hết thời đoạn cho phép, trạm phải chuyển thẻ bài đến trạm
tiếp theo trong vòng logic. Như vậy công việc phải làm đầu tiên là thiết lập
vòng logic (hay còn gọi là vòng ảo) bao gồm các trạm đang có nhu cầu truyền dữ
liệu được xác định vị trí theo một chuỗi thứ tự mà trạm cuối cùng của chuỗi sẽ
tiếp liền sau bởi trạm đầu tiên. Mỗi trạm được biết địa chỉ của các trạm kề trước
và sau nó. Thứ tự của các trạm trên vòng logic có thể độc lập với thứ tự vật
lý. Các trạm không hoặc chưa có nhu cầu truyền dữ liệu thì không được đưa vào
vòng logic và chúng chỉ có thể tiếp nhận dữ liệu.
Vấn đề quan trọng là phải duy trì
được vòng logic tuỳ theo trạng thái thực tế của mạng tại thời điểm nào đó. Cụ
thể cần phải thực hiện các chức năng sau:
- Bổ sung một trạm vào vòng
logic: các trạm nằm ngoài vòng logic cần được xem xét định kỳ để nếu có nhu cầu
truyền dữ liệu thì bổ sung vào vòng logic.
- Loại bỏ một trạm khỏi vòng
logic: Khi một trạm không còn nhu cầu truyền dữ liệu cần loại nó ra khỏi vòng
logic để tối ưu hoá việc điều khiển truy
nhập bằng thẻ bài
- Quản lý lỗi: một số lỗi có thể
xảy ra, chẳng hạn trùng địa chỉ (hai trạm đều nghĩ rằng đến lượt mình) hoặc “đứt
vòng” (không trạm nào nghĩ đến lượt mình)
- Khởi tạo vòng logic: Khi cài đặt
mạng hoặc sau khi “đứt vòng”, cần phải khởi tạo lại vòng.
Các giải thuật cho các chức năng
trên có thể làm như sau:
- Bổ sung một trạm vào vòng
logic, mỗi trạm trong vòng có trách nhiệm định kỳ tạo cơ hội cho các trạm mới
nhập vào vòng. Khi chuyển thẻ bài đi, trạm sẽ gửi thông báo “tìm trạm đứng sau”
để mời các trạm (có địa chỉ giữa nó và trạm kế tiếp nếu có) gửi yêu cầu nhập
vòng. Nếu sau một thời gian xác định trước mà không có yêu cầu nào thì trạm sẽ
chuyển thẻ bài tới trạm kề sau nó như thường lệ. Nếu có yêu cầu thì trạm gửi thẻ
bài sẽ ghi nhận trạm yêu cầu trở thành trạm đứng kề sau nó và chuyển thẻ bài tới
trạm mới này. Nếu có hơn một trạm yêu cầu
nhập vòng thì trạm giữ thẻ bài sẽ phải lựa chọn theo giải thuật nào đó.
- Loại một trạm khỏi vòng logic:
Một trạm muốn ra khỏi vòng logic sẽ đợi đến khi nhận được thẻ bài sẽ gửi thông
báo “nối trạm đứng sau” tới trạm kề trước nó yêu cầu trạm này nối trực tiếp với trạm kề sau nó
- Quản lý lỗi: Để giải quyết các
tình huống bất ngờ. Chẳng hạn, trạm đó nhận được tín hiệu cho thấy đã có các trạm
khác có thẻ bài. Lập tức nó phải chuyển sang trạng thái nghe (bị động, chờ dữ
liệu hoặc thẻ bài). Hoặc sau khi kết thúc truyền dữ liệu, trạm phải chuyển thẻ
bài tới trạm kề sau nó và tiếp tục nghe xem trạm kề sau đó có hoạt động hay đã
bị hư hỏng. Nếu trạm kề sau bị hỏng thì phải tìm cách gửi các thông báo để vượt
qua trạm hỏng đó, tìm trạm hoạt động để gửi thẻ bài.
- Khởi tạo vòng logic: Khi một trạm
hay nhiều trạm phát hiện thấy đường truyền không hoạt động trong một khoảng thời
gian vượt quá một giá trị ngưỡng (time out) cho trước - thẻ bài bị mất (có thể
do mạng bị mất nguồn hoặc trạm giữ thẻ bài bị hỏng). Lúc đó trạm phát hiện sẽ gửi
đi thông báo “yêu cầu thẻ bài” tới một trạm được chỉ định trước có trách nhiệm
sinh thẻ bài mới và chuyển đi theo vòng logic.
3.3.
Phương pháp TOKEN RING
- Phương pháp này dựa trên
nguyên lý dùng thẻ bài để cấp phát quyền truy nhập đường truyền. Thẻ bài lưu chuyển theo vòng vật lý chứ không
cần thiết lập vòng logic như phương pháp trên
Thẻ bài là một đơn vị dữ liệu đặc
biệt trong đó có một bít biểu diễn trạng thái sử dụng của nó (bận hoặc rôĩ). Một
trạm muốn truyền dữ liệu thì phải đợi đến khi nhận được một thẻ bài rỗi. Khi đó
nó sẽ đổi bít trạng thái thành bận và truyền một đơn vị dữ liệu cùng với thẻ
bài đi theo chiều của vòng. Giờ đây không còn thẻ bài rỗi trên vòng nữa, do đó
các trạm có dữ liệu cần truyền buộc phải đợi. Dữ liệu đến trạm đích sẽ được sao
lại, sau đó cùng với thẻ bài đi tiếp cho đến khi quay về trạm nguồn. Trạm nguồn
sẽ xoá bỏ dữ liệu, đổi bít trạng thái thành rỗi cho lưu chuyển tiếp trên vòng để
các trạm khác có thể nhận được quyền truyền dữ liệu
- Sự quay về trạm nguồn của dữ liệu và thẻ bài nhằm tạo
một cơ chế nhận từ nhiên: trạm đích có thể gửi vào đơn vị dữ liệu các thông tin
về kết quả tiếp nhận dữ liệu của mình.
+ Trạm đích không tồn tại hoặc không hoạt động
+ Trạm đích tồn tại nhưng dữ liệu không sao chép được
+ Dữ liệu đã được tiếp nhận
- Phương pháp này cần phải giải quyết hai vấn đề có thể
gây phá vỡ hệ thống:
+ Mất thẻ bài: trên vòng không còn thẻ bài lưu chuyển
nữa
+ Một thẻ bài bận lưu chuyển không dừng trên vòng
- Giải quyết: Đối với vấn đề mất thẻ bài, có thể quy định
trước một trạm điều khiển chủ động. Trạm này sẽ phát hiện tình trạng mất thẻ
bài bằng cách dùng cơ chế ngưỡng thời gian (time out) và phục hồi bằng cách
phát đi một thẻ bài “rỗi” mới.
Đối với vấn đề thẻ bài bận lưu chuyển không dừng, trạm
monitor sử dụng một bit trên thẻ bài (gọi là monitor bit) để đánh dấu đặt giá
trị 1 khi gặp thẻ bài bận đi qua nó. Nếu nó gặp lại một thẻ bài bận với bít đã
đánh dấu đó thì có nghĩa là trạm nguồn đã không nhận lại được đơn vị dữ liệu của
mình và thẻ bài “bận” cứ quay vòng mãi. Lúc đó trạm monitor sẽ đổi bit trạng
thái của thẻ thành rỗi và chuyển tiếp trên vòng. Các trạm còn lại trên trạm sẽ
có vai trò bị động: chúng theo dõi phát hiện tình trạng sự cố của trạm monitor
chủ động và thay thế vai trò đó. Cần có một giải thuật để chọn trạm thay thế
cho trạm monitor hỏng.