BÀI 1: CẤU TRÚC
VÀ CÁCH SỬ DỤNG HỆ THỐNG ROBOT ĐIỀU KHIỂN TỰ ĐỘNG BẰNG
MÁY TÍNH
1.1 Giải thích cấu trúc hệ thống tự động trên máy tính
Là
tác động lên đối tượng để đối tượng làm việc theo
một mục đích nào đó.
Là một tập hợp các thành phần vật lý có liên hệ tác
động qua lại với nhau để chỉ huy hoặc hiệu chỉnh bản thân đối tượng hay một hệ
thống khác.
Xung quanh ta có rất nhiều hệ thống điều khiển nhưng
có thể phân chia thành 3 dạng hệ thống điều khiển cơ bản.
˗
Hệ thống điều khiển nhân tạo.
˗
Hệ thống điều khiển tự nhiên (bao gồm
điều khiển sinh vật).
˗
Hệ thống điều khiển tự nhiên và nhân
tạo.
Trong các hệ thống đó đối tượng điều khiển có thể là
hệ thống vật lý, thiết bị kỹ thuật, cơ chế sinh vật, hệ thống kinh tế, quá
trình v.v... đối tượng nghiên cứu là các thiết bị kỹ thuật gọi là điều khiển
học kỹ thuật.
Mỗi hệ thống (hoặc phần tử của hệ thống) kỹ thuật, đều
chịu tác động của bên ngoài và cho ta các đáp ứng. Gọi tác động vào là đầu vào,
tác động ra là đầu ra (hoặc tín hiệu
vào, tín hiệu ra).
Hình 1-1
Lý thuyết điều khiển tự động giải
quyết 2 nhiệm vụ chính:
˗
Phân tích hệ thống
˗
Tổng hợp hệ thống
* Phân tích hệ thống
Nhiệm vụ này nhằm xác định đặc tính đầu ra của hệ sau
đó đem so sánh với những chỉ tiêu yêu cầu để đánh giá chất lượng điều khiển của
hệ thống đó.
Muốn phân tích hệ thống điều khiển tự động người ta
dùng phương pháp trực tiếp hoặc gián tiếp để giải quyết 2 vấn đề cơ bản.
˗
Tính ổn định của hệ thống
˗
Chất lượng của quá trình điều khiển-
quá trình xác lập tang thái tĩnh và trạng thái động (trạng thái quá độ).
Để giải quyết
vấn đề trên dùng mô hình toán học, tức là các phần tử của hệ thống điều khiển
đều được đặc trưng bằng mô hình toán của các phần tử sẽ cho mô hình toán của
toàn bộ hệ thống.
Có thể xác định đặc tính ổn định của hệ thống qua mô
hình toán của hệ thống với việc sử dụng lý thuyết ổn định trong toán học.
* Tổng hợp hệ thống
Tổng hợp hệ thống là xác định thông số và cấu trúc của
thiết bị điều khiển. Giải bài toán này, thực ra là thiết kế hệ thống điều
khiển. Trong quá trình tổng hợp này thường kèm theo bài toán phân tích.
Đối với các hệ thống điều khiển tối ưu và thích nghi,
nhiệm vụ tổng hợp thiết bị điều khiển giữ vai trò rất quan trọng. Trong các hệ
thống đó, muốn tổng hợp được hệ thống phải xác định Algorit điều khiển tức là
xác định luật điều khiển Đ(t). Hệ thống điều khiển yêu cầu chất lượng cao thì
việc tổng hợp càng trở nên phức tạp. Trong một số trường hợp cần đơn giản hoá
một số yêu cầu và tìm phương pháp tổng hợp thích hợp để thực hiện.
Để tiện việc nghiên cứu về các vấn đề điều khiển cần
sử dụng các sơ đồ (mô hình) diễn tả các thành phần của hệ thống sao cho rõ ràng
mọi mối quan hệ bên trong và ngoài hệ thống để dễ dàng phân tích, thiết kế và
đánh giá hệ thống.
Thực tế sử dụng các mô hình sau là phổ biến và thuận
tiện:
˗
Hệ thống các phương trình vi phân
˗
Sơ đồ khối.
˗
Graph tín hiệu.
˗
Hàm truyền đạt
˗
Không gian trạng thái
(Sơ đồ khối và Graph tín hiệu là cách biểu diễn bằng
đồ hoạ để diễn tả một hệ thống vật lý hoặc một hệ phương trình toán đặc trưng
cho các phần tử của hệ thống - Diễn tả một cách trực quan hơn).
Về mặt lý thuyết mỗi hệ
thống điều khiển đều có thể diễn tả bằng các phương trình toán. Giải các phương
trình này và nghiệm của chúng sẽ diễn tả trạng thái của hệ thống. Tuy nhiên
việc giải phương trình thường khó tìm nghiệm (có trường hợp không tìm được) lúc
đó cần đặt các giả thiết để đơn giản hoá nhằm dẫn tới các phương trình vi phân
tuyến tính thường – Hệ điều khiển tuyến tính liên tục.
Phần lớn kỹ thuật điều
khiển hiện đại, là sự phát triển của các mô hình toán học cho các hiện tượng
vật lý. Sau đó dựa vào các mô hình toán học để nghiên cứu các tính chất của hệ
thống điều khiển.
Các hệ thống vật lý (hoặc các quá trình) cần được diễn
tả chính xác mọi quan hệ giữa những đại lượng biến động bên trong của chúng. Từ
đó ta dễ dàng nghiên cứu được các hiện tượng diễn biến của hệ thống; các định
luật cơ bản của vật lý có thể giúp ta giải quyết vấn đề đó. Các quan hệ của các
đại lượng cơ bản nói chung có thể biểu diễn bằng các phương trình vi phân (gọi
là mô hình toán của hệ thống).
Ví dụ: Phương trình của định luật II Newton F = m.a
Trong phương trình đại số
giá trị các đại lượng không thay đổi theo thời gian, vì thế nó chỉ diễn tả
trạng thái ổn định của hệ. Nhưng trong thực tế hệ không tĩnh. Đầu ra thường
biến động đối với các thay đổi của đầu vào, thêm vào đó tác động của nhiễu cũng
thay đổi theo thời gian, nên hệ không ổn định tức là đầu ra dao động.
Vì thế cần phải phân tích
hệ trong các điều kiện động lực hoặc gọi là trong trạng thái quá độ, lúc này
các biến số không cố định mà thay đổi theo thời gian. Phương trình vi phân mô
tả hệ ở trạng thái động lực không chỉ chứa bản thân các biến số mà còn chứa tốc
độ thay đổi hoặc gọi là đạo hàm của các biến số đó.
* Các nội dung cơ bản của phương trình vi phân
Phương
trình dạng:
an. + an-1. + ... + a1. + a0. y = x(t) (1.1)
x(t) và y(t) là các biến phụ thuộc, t là biến độc lập.
* Các tính chất của phương trình vi phân
Mọi hệ là tuyến tính nếu quan hệ vào- ra của nó có thể
biểu thị bằng phương trình vi phân tuyến tính:
Hoặc một hệ là
tuyến tính nếu quan hệ vào ra của nó có thể biểu thị bằng tích phân:
y(t) =
Trong đó W(t,) là
hàm thể hiện các tính chất bên trong của hệ, y(t) là đầu ra và x(t) là đầu vào.
Hàm 2 biến W(t,) là
hàm trọng lượng của hệ.
- Đáp ứng y(t) của một hệ tuyến tính do nhiều đầu vào
x1(t), x2(t), ...., xn(t) tác động đồng thời
lên hệ bằng tổng các đáp ứng của mỗi đầu vào tác động riêng biệt (nguyên lý
chồng chất)
Ví dụ
Phương trình vi
phân thuần nhất:
Có hai nghiệm y1(t),
y2(t). theo nguyên lý chồng chất thì y1(t) + y2(t) cũng là một nghiệm của
phương trình đó.
- Toán tử vi phân và phương trình đặc trưng:
Xét phương
trình vi phân tuyến tính hệ số hằng cấp n
Gọi
toán tử vi phân
Phương trình
trên có thể viết thành:
(1.2)
Đa thức gọi là đa thức đặc trưng.
Phương trình là phương trình đặc trưng.
Nghiệm của phương trình đặc trưng rất có ý
nghĩa khi xét tính ổn định của hệ thống.
*
Sơ đồ khối được biểu thị bằng các khối liên kết với nhau để diễn tả mối quan hệ
đầu vào và đầu ra của một hệ thống vật lý.
*
Sơ đồ khối thuận tiện để diễn tả mối quan hệ giữa các phần tử của hệ thống điều
khiển.
Ví dụ:
a) b)
c)
Hình 1-2
* Các khối có thể là một thiết bị hoặc dụng cụ và có
thể là một hàm (chức năng) xảy ra trong hệ thống.
Khối: Ký hiệu thuật toán phải thực hiện đầu vào để
tạo đầu ra.
Đường nối:
Đường nối giữa các khối biểu thị đại lượng hoặc biến số trong hệ thống.
Mũi tên: Chỉ tiêu của dòng thông tin
hoặc tín hiệu “Các khối nối tiếp nhau thì đầu ra của khối trước là đầu vào của
khối sau”
Điểm tụ: Biểu hiện thuật toán cộng
hoặc trừ ký hiệu bằng một vòng tròn đầu ra của điểm tụ là tổng đại số của các
đầu vào.
Hình 1-3
Điểm tán:
Cùng một tín hiệu hoặc một biến số phân ra nhiều nhánh tại điểm đó gọi
là điểm tán, tức là tại đó đầu ra áp lên
nhiều khối khác “ký hiệu là một nốt tròn đen”.
Hình 1-4
Cấu trúc sơ đồ khối của hệ thống điều khiển kín
Hình 1-5
Hình (1-5) diễn tả một hệ thống điều khiển kín bằng sơ
đồ khối. Các khối mô tả các phần tử trong hệ được nối với nhau theo quan hệ bên
trong của hệ thống.
1.2 Giải thích các tên biến sử dụng trên
hệ thống tự động
˗
Giá trị vào V: tín hiệu ngoài áp vào
hệ.
˗
Tín hiệu vào chuẩn R: rút từ giá trị
vào V là tín hiệu ngoài hệ áp lên hệ điều khiển như một lệnh xác định cấp cho
đối tượng. R biểu thị cho một đầu vào lý tưởng dùng làm chuẩn để so sánh với
tín hiệu phản hồi B.
˗
- Biến số điều khiển M (tín hiệu điều
chỉnh): là đại lượng hoặc trạng thái mà phần tử điều khiển G1 áp lên
phần từ (đối tượng) điều khiển G2 (quá trình được điều khiển).
˗
Biến số ra C (tín hiệu ra): là đại
lượng hoặc trạng thái của đối tượng (hoặc quá trình) đã được điều khiển.
˗
Tín hiệu phản hồi B: là một hàm của
tín hiệu ra C được cộng đại số với vào chuẩn R để được tín hiệu tác động E.
˗
Tín hiệu tác động E (cũng gọi là sai
lệch hoặc tác động điều khiển) là tổng đại số (thường là trừ) giữa đầu vào là R
với phần tử B là tín hiệu áp lên phần tử điều khiển.
˗
Nhiễu u: là tín hiệu vào không mong
muốn ảnh hưởng tới tín hiệu ra C. Có thể vào đối tượng theo M hoặc một điểm
trung gian nào đó (mong muốn đáp ứng của hệ đối với nhiễu là nhỏ nhất).
˗
Phần tử vào chuẩn GV:
chuyển đổi giá trị vào V thành tín hiệu vào chuẩn R (thường là một thiết bị
chuyển đổi).
˗
Phần tử điều khiển G1: là
thành phần tác động đối với tín hiệu E tạo ra tín hiệu điều khiển M áp lên đối
tượng điều khiển G2 (hoặc quá trình).
˗
Đối tượng điều khiển G2 là
vật thể, thiết bị, quá trình mà bộ phận hoặc trạng thái của nó được điều khiển.
˗
Phần tử phản hồi H: là thành phần để
xác định quan hệ (hàm) giữa tín hiệu phản hồi B và tín hiệu ra C đã được điều
khiển (đo hoặc cảm thụ trị số ra C để chuyển thành tín hiệu ra B (phản hồi).
˗
Kích thích: là các tín hiệu vào từ
bên ngoài ảnh hưởng tới tín hiệu ra C. Ví dụ tín hiệu vào chuẩn R và nhiều u là
các kích thích.
˗
Phản hồi âm: điểm tụ là một phép trừ
˗
Phản hồi dương: ở điểm tụ là phép
cộng:
˗
(Điều khiển kín gồm hai tuyến: Tuyến
thuận truyền tín hiệu từ tác động E đến tín hiệu ra C. Các phần tử trên tuyến
thuận ký hiệu G (G1 , G2, ...) tuyến phản hồi truyền từ
tín hiệu ra C đến phản hồi B các phần tử ký hiệu là H (H1 , H2
, ...).
1.3 Giải thích tầm quan trọng và cách sử
dụng mô hình toán học của các linh kiện trong hệ thống và chức năng hàm truyền
đạt tải
Tác dụng vào lò xo có chiều dài L0 để lò xo di động một lượng
X thì cần một lực:
PL
= k .X (k: là độ cứng lò xo hay
là hằng số lò xo)
Đối với lò xo thông thường tín hiệu vào là lực
tín hiệu ra là lượng di động
Vậy mô hình toán đặc trưng và sơ đồ khối biểu diễn
chức năng như hình 1-8
Để di động piston với vận tốc V, cần tác dụng lực PV
có giá trị:
áp
dụng toán tử Laplace: s =
Lực
PV coi là tín hiệu vào
Tín hiệu ra: Lượng di
động R.
Từ các yếu tố trên thành lập sơ đồ khối thể
hiện mô hình toán của bộ giảm chấn.
Theo định luật II Newton tổng các lực P ở bên
ngoài tác dụng vào một trọng khối sẽ có biểu thức:
Dùng toán tử Laplace: s = nên P = M. S2.R
Sơ đồ khối thể hiện mô hình toán như sau:
Định luật II
Newton: Đối với chuyển động quay gia tốc góc của vật thể quay tỷ lệ thuận với
tổng mô men tác dụng lên nó.
Dạng toán học
của định luật:
Trong đó: là góc quay
là momen quán tính của vật thể
M là momen bên ngoài tác dụng vào vật thể.
Momen bên ngoài được tạo ra từ động cơ, do tải trọng
tác dụng lò xo hoặc giảm chấn.
Xét một đĩa quay trong chất lỏng và nối với một bánh đà như hình vẽ:
Phân tích để xây dựng mô hình toán:
Quay đĩa được phải tác dụng một momen xoắn Mx,
trục quay đi một góc là j
tạo mo men của lò xo: M1 = kx. j (1.10)
Trục có đường kính D, chiều dài l, hệ số lò xo xoắn
là:
(G: Mô đun đàn hồi)
Momen cần thiết để thắng lực ma sát của chất lỏng:
(1.11)
w: là vận tốc góc
C: hệ số ma sát của chất lỏng
Nếu quay đĩa với momen xoắn Mx (momen xoắn của
trục lò xo) và momen ma sát sẽ ngăn cản sự quay của đĩa do đó có thể viết
thành:
Thay các trị số (1.10) và (1.11) ta có:
Từ phương trình trên ta có sơ đồ khối của hệ thống như
hình vẽ.
Các phần tử cơ bản
của các mạch điện
Xét phần tử dầu ép:
Nếu van trượt được đẩy lên phía trên , dầu có áp suất
P0 sẽ vào buồng trên của xi lanh 3 và dầu của buồng dưới sẽ qua van
trượt về bể dầu.
Nếu van trượt được đưa xuống phía dưới , dầu sẽ qua
buồng dưới của xilanh 1 và dầu ở buồng trên sẽ chảy về bể dầu. Với hiệu áp
không đổi được hình thành ở cửa van, tức là tỷ lệ thuận với lượng di động x.
Gọi q là lượng dầu chảy vào xilanh, ta có:
q đồng thời cũng là sự thay đổi thể tích của xilanh:
diện tích bề mặt của xilanh)
A.Py
= C1.x
y =
.x
Từ phương trình
trên tín hiệu vào là x ( lượng di động của xilanh 1) và tín hiệu ra y lượng di
động của xilanh 2.
Ta xét một phần
tử phi tuyến và trên cơ sở đó tiến hành tuyến tính hoá mô hình toán học đặc
trưng cho chức năng của cơ cấu.
Xét cơ cấu nâng vuông góc bằng cơ khí:
Thanh nâng vuông góc tại điểm và có thể chuyển động cưỡng bức
trong rãnh thẳng đứng. Một nhánh của thanh nâng có thể trượt trên con trượt ở
điểm
B , con trượt này di động cưỡng bức theo phương ngang.
Nhánh kia của thanh nâng có thể di động trong bạc của khớp nối cố định ở điểm
C.
- Phân tích:
Tam giác AOB
luôn đồng dạng tam giác AOC nên:
( K = const)
Nếu tín hiệu vào là X, thì vị trí của điểm B là tín hiệu ra Y tỷ lệ với
bình phương của X. Còn tín hiệu vào là Y và tín hiệu ra là X sẽ tỷ lệ với căn
bậc hai của Y:
Để viết phương
trình toán và xây dựng mô hình toán học ta cần tuyến tính hoá các phương trình
phi tuyến trên.
Hàm truyền đạt (The Transfer function) của một hệ
thống tuyến tính được định nghĩa là tỷ số giữa biến đổi Laplace của biếu ra
(đại lượng đáp ứng ra của hệ thống) so với biến đổi Laplace của biến vào (đại
lượng tác động vào hệ thống), Với điều kiện đầu đồng nhất bằng không. Hàm
truyền đạt của hệ thống (phần tử) đặc trưng cho mô tả động lực học của hệ
thống.
Một hàm truyền đạt chỉ có thể xác định cho hệ thống
tuyến tính, hệ thống bền vững (tham số không đổi). Một hệ thống không bền vững
thường gọi là hệ thống biến thời gian thay đổi, có một hay nhiều tham số thay
đổi, và phép biến đổi Laplace không được áp dụng đối với hệ thống này.
Hàm truyền đạt thể hiện tác động vào và đáp ứng ra của
trạng thái hệ thống.
Tuy nhiên, hàm truyền đạt không diễn tả thông tin về
cấu trúc bên trong của hệ thống và trạng thái hoạt động của hệ thống.
Về mặt kết cấu, robot được chế tạo rất khác
biệt nhau về chủng loại, hình dáng…nhưng chúng đều được cấu thành từ
các thành phần cơ bản sau:
Tay máy
Bộ
điều khiển và hệ cảm biến
Hệ
thống nguồn năng lượng
Hình
2.1 thể hiện các bộ phận cơ bản của một robot công nghiệp điển hình.
Manipulator
Teach pedant
Hình
2.1: Các bộ phận cơ bản của một robot công nghiệp điển hình
Là
cơ cấu cơ khí dạng một chuỗi động hở gồm các khâu, khớp nối với nhau, được điều khiển và dẫn động để thực hiện
những thao tác phục vụ các yêu cầu công nghệ
nhất định. Tay máy thông thường gồm các khâu (bộ phận) cơ bản:
Chân đế (Base):
thường bắt cố định xuống nền, sàn hoặc có thể di chuyển trên các
giá đỡ. Nó đỡ toàn bộ cánh tay và cho phép cánh tay quay quanh chân đế một góc nhất định. Trên chân đế thường bố trí
các cổng kết nối robot với bộ điều khiển.
Vai (Shoulder): là một khâu động liên kết phần đế với cánh tay robot. Tại khớp
kết nối với chân đế nó có thể quay quanh trục thẳng đứng, khớp còn lại liên kết
với cánh tay (gọi là khớp vai).
Cánh
tay (Upper arm): thường là khâu động
có kích thước lớn hơn các khâu khác,
nó được gắn trên khớp vai và có thể quay được một góc nhất định quanh trục khớp vai.
Cẳng
tay (Fore arm): gắn với cánh tay và
có thể nâng hạ trong một giới hạn.
Cổ tay (Swist):
thường dùng để kết nối hàm kẹp với cẳng tay, nó thường có thể quay tròn được. Kết cấu các loại khớp động trên cổ tay robot
sẽ thể hiện khả năng linh
hoạt của bàn kẹp.
Hàm kẹp (Gripper): dùng để kẹp các đối tượng: dụng cụ, chi tiết… nó thể dùng cơ cấu kẹp chặt kiểu nam châm điện, cơ
khí hoặc khí nén.
Bộ
điều khiển cấu thành từ những bộ phận cơ bản như một máy tính, gồm bộ xử lý trung
tâm, bộ nhớ và bộ xuất/nhập kết hợp màn hình hiển thị. Các bộ phận này được bố trí trong một tủ điều khiển theo từng mô
đun chức năng. Ngoài ra để thuận tiện cho sử
dụng, người ta dùng một panel
có màn hình hiển thị và các phím chức năng, được kết nối song song với độ
điều khiển gọi là Teach pedant
Bộ
điều khiển đảm bảo điều khiển cánh tay robot hoạt động theo các chương trình
đặt
trước hoặc từ các thông tin nhận biết trong quá trình làm việc.
Tuy nhiên trong thực tế người ta còn dùng bộ điều khiển kết hợp với máy tính
thông qua các card giao tiếp và phần mềm ứng dụng để tiện lợi cho việc lập trình điều khiển và giám sát quá trình làm việc
của robot.
Thực hiện việc nhận biết và biến đổi thông tin về hoạt động của robot. Các thông tin đặt trước hoặc cảm biến nhận được sẽ đưa vào hệ thống điều khiển, sau khi xử lý, tín hiệu điều khiển được tác động vào hệ
thống truyền dẫn động của tay máy.
Trong
một robot công nghiệp thường có 2 bộ phận cảm
biến:
˗
Cảm biến giám sát trạng thái hệ thống (hay còn gọi là cảm biến nội tín hiệu) để
nhận biết thông tin về hoạt động của bản thân
robot.
˗
Cảm biến giám sát thông số môi trường (hay còn gọi là
cảm biến ngoại tín hiệu) để nhận các tín hiệu từ môi trường mà robot đang phục vụ.
.
Hình
2.2: Sơ đồ cấu trúc cơ bản một Robot công nghiệp
Cung cấp năng lượng cho các hoạt động của tay máy: nguồn điện (AC/DC),
khí nén hoặc thủy lực
Tay máy công nghiệp là một cơ cấu truyền động gồm các khâu liên kết với nhau
qua các khớp để thực hiện một số chuyển động nhất định, như vậy ta có thể nói:
Khâu
là một (hay một số) vật thể rắn liên kết cứng với nhau trong một cơ cấu và có ít nhất 2 nút tại đó liên kết qua
một khớp động tới các khâu khác.
Khớp
động là mối nối giữa 2 hay nhiều khâu liền nhau, nơi cho phép có chuyển động
tương đối giữa các khâu. Khớp động hạn chế một phần chuyển động giữa các khâu.
Có
nhiều cách phân loại khớp động, nhưng phần này quan tâm đến việc phân loại khớp
động theo số bậc tự do còn lại hay số điều kiện liên kết hình học giữa các khâu. Theo điều kiện liên kết trong
chuyển động tương đối giữa các khâu tạo thành khớp động có thể phân
biệt khớp động loại 1, loại 2…loại 5 tương ứng với số bậc tự do hạn chế là 1, 2…5.
Như vậy khớp động loại 5 chỉ còn lại 1 bậc tự do trong
chuyển động tương
đối giữa các khâu, loại này được dùng phổ biến trong các robot công nghiệp.
Hình
2.3 thể hiện các dạng liên kết (khớp nối) giữa 2 khâu trong các tay máy.
Hình
2.3: Các dạng liên
kết 2 khâu của tay máy
Tuy nhiên trong thực tế 2 dạng khớp động thường
được sử dụng phổ biến nhất
trong các tay máy là khớp tịnh tiến (khớp trượt) và khớp quay.
Phần
sau sẽ trình bày ký hiệu qui ước của các loại khớp động này.
Khớp
quay (Revolute Joints): là khớp động
loại 5, chúng gồm 2 loại:
Khớp
lắc (Pick joint): Trục quay vuông góc
với trục tâm các khâu
- Khớp xoay (Roll joint):
khâu đồng trục 2
khâu vuông góc 0
Là
khớp loại 3 (P3),
chúng bị khống chế 3 bậc tự do.
Phương
tịnh tiến thông thường trùng với đường tâm của một khâu
Bậc tự do W của
một vật cho biết số khả năng chuyển động độc lập mà một vật
cứng có thể thực hiện trong một hệ tọa độ chuẩn. W đồng nghĩa với số lượng khai báo
tối thiểu hoặc tọa độ cần thiết để mô tả vị trí của vật trong không gian.
Hình
2.4 thể hiện bậc tự do của vật trong mặt phẳng và không gian. Vị trí điểm M (hình 2.3b) được xác định bởi vectơ P,
nó phản ánh 3 bậc tự do của chuyển động tịnh
tiến. Ngoài ra vật có thể quay quanh 3 trục mà không làm thay đổi vị trí
điểm M, đó là 3 bậc tự do của chuyển động quay, chúng mô tả hướng
của vật so với hệ tọa độ gốc.
Hình 2.4: Bậc tự do của
một vật thể
Các tay máy phải có kết cấu sao cho nó có thể thực hiện dễ dàng việc kẹp và giữ vật
trong quá trình làm việc. Muốn vậy nó phải đạt một số bậc tự do chuyển động. Số bậc tự
do của một tay máy có thể không hạn chế nếu như bên cạnh một hệ tọa độ cơ bản
(Frame Original) ta còn đặt nhiều hệ
tọa độ trung gian, hệ tọa độ mở rộng khác
Trong các tay máy công nghiệp
thường mỗi khâu động gắn với nguồn dẫn động riêng, và chuỗi động liên kết các khâu là chuỗi động hở. Do vậy đối với các loại cơ cấu dùng các khớp động loại 5 thì số bậc tự
do của cơ cấu bằng số khâu động.
Trường
hợp tổng quát số bậc tự do của tay máy có thể tính theo công thức:
Trong
đó: n số khâu động
Pi số khớp động loại i
Như
vậy đối với cơ cấu hở, số bậc tự do của cơ cấu bằng tổng số bậc tự do của các khớp động. Người ta qui ước số bậc tự do của tay máy không
kể đến các chuyển động đóng
mở của hàm kẹp.
Ví
dụ:
Hình
2.5: Robot RV-1A
Hình
vẽ 2.5 thể hiện chuyển động tại các
khớp của robot RV- 1A, theo đó cánh tay robot có thể thực hiện các chuyển động quay quanh các khớp xoay từ khớp J1 đến J6. Như vậy ngoài chuyển động kẹp/tháo
kẹp, robot này gồm 6 khớp động (loại
5) tương ứng với 6 khâu được dẫn
động độc lập, do vậy robot này có 6
bậc tự do.
Các cấu hình khác nhau của cơ cấu tay máy trong từng thời điểm được xác định
bằng các độ dịch chuyển góc hoặc các độ dịch chuyển dài của các khớp quay hoặc khớp
tịnh tiến.
Các độ dịch chuyển
tương đối đó so với giá trị ban đầu nào đó lấy làm mốc tính toán, được gọi là các tọa độ suy rộng (Generalized joint coordinates) hoặc còn
được gọi là các giá trị biến khớp (Joint variables)
Trong sơ đồ động trên hình 2.6 có 5 khớp động loại 5, tức là có 5 bậc tự do. Theo
sơ đồ này có 5 độ dịch chuyển lần lượt là 1, 2, 3, 4 và d1. Đây chính là 5 biến khớp (hoặc 5 tọa độ suy rộng).
Trong 5 thành phần dịch chuyển trên, chì có d1 là
biến dịch chuyển của khớp tịnh tiến giữa khâu 2 đối
với khâu 1, còn lại là các dịch chuyển góc của các khớp quay.
Hình
2.6: Sơ đồ động một tay máy tọa độ suy
Trong
trường hợp chung ta gọi i = 1, 2….n là các biến khớp (tọa độ suy rộng) của cơ
cấu tay máy và nó được biểu thị:
Qi = i i
+ (1 -
δi) Si
Trong đó:
δi giá trị góc quay
của các khớp quay
Si độ dịch chuyển
tịnh tiến của các khớp
tịnh tiến
-
Các chuyển động cơ bản của một tay máy có thể hoạt động trong các hệ tọa độ
(Coordinate Frames) khác nhau.
Không gian làm việc (Workspace) của robot là vùng không
gian mà nó có thể thao
tác được trong quá trình hoạt động.
Trong thực tế tùy thuộc vào hệ tọa độ sử dụng, tùy thuộc vào cấu hình robot mà mỗi
loại robot có những vùng làm việc khác nhau.
Để hiểu rõ hơn về không gian hoạt
động của Robot chúng ta cần phải phân tích các hệ trục toạ độ tạo ra không gian
làm việc của robot, thông thường có 3
hệ thống hệ trục toạ độ thường dùng như sau:
Hệ
toạ độ vuông góc: không gian hoạt động là khối lập phương.
Hệ
toạ độ trụ: sử dụng cho không gian hoạt động khối trụ.
Hệ
toạ độ cầu: sử dụng cho không gian hoạt động khối cầu.
Đối
với các robot hoạt động trong hệ tọa độ vuông góc, các chuyển động cơ bản là các chuyển động tịnh tiến dọc theo các trục X, Y, Z. Do vậy vùng không gian hoạt động của
robot sẽ là khối lập phương giới hạn bởi kích thước dài trên 3 trục tọa độ (hình 2.7). Trong thực tế, ngoài các chuyển động cơ bản nói trên, tại bàn kẹp dụng cụ của robot có thể thực hiện các chuyển động xoay tròn,
vặn, lắc…
Hình 2.7 : Robot hệ tọa độ
vuông góc và không gian làm việc
Truyền động cho các di chuyển theo các trục X, Y, Z được đưa ra bởi các cơ cấu
truyền động đai, truyền động bánh răng thanh răng... Còn các chuyển động xoay, vặn và
lắc được thực hiện bởi các cơ cấu truyền
động tròn và có thể sử dụng các nguồn năng
lượng khí nén, thủy lực hoặc điện. Có thể gắn Robot này vào trần hoặc nền tuỳ theo yêu cầu
và không gian sử dụng Robot.
Robot
hoạt động theo hệ trục toạ độ vuông góc có các ưu, nhược điểm:
Ưu điểm:
Không
gian hoạt động lớn, khoảng di chuyển theo trục X có thể tới 80 feet
Hệ
thống điều khiển đơn giản.
Có
thể gắn bệ dụng cụ riêng biệt tùy theo yêu cầu sử dụng.
Nhược điểm:
Việc
bảo trì cho các bộ phận truyền động cơ khí, thiết bị điều khiển cho một số dạng tương đối khó khăn.
Hoạt
động không linh hoạt, khó gắn thêm một số đầu dụng cụ như cần trục, thiết bị nâng hạ vật liệu vào cấu trúc
nâng của Robot.
Ứng
dụng chính của Robot dạng không gian hoạt động vuông góc là di chuyển vật liệu thay các thiết bị nâng, dịch
chuyển dọc trục, lắp ráp các chi tiết …
Cánh
tay robot thực hiện 3 chuyển động cơ bản: tịnh tiến theo phương thẳng đứng (trục Z), tịnh tiến theo phương
ngang (trục X) và quay quanh trục đứng (trục Z). Hình 2.8 thể hiện các chuyển động của một robot tọa độ trụ và không gian làm việc của nó là một hình khối trụ.
Hình
2.8: Robot hệ tọa độ
trụ và không gian làm việc
Các
trục của Robot toạ độ trụ được điều khiển bởi thủy lực, khí nén hoặc điện.
Ưu điểm của robot hoạt động theo hệ toạ độ trụ:
Có
thể di chuyển nhanh theo hướng ngang vào hệ thống sản xuất.
Khả
năng lặp lại tốt.
Cấu
trúc cứng vững nên khả năng tải cao.
Nhược điểm cơ bản của Robot hoạt động theo hệ toạ độ trụ là bị giới hạn các chuyển động sang phải và trái bởi cấu hình và kết cấu cơ khí của Robot hoặc của các bộ
phận truyền động.
Để khắc phục nhược điểm này người ta thường gắn Robot lên bệ di động theo hướng trục Y.
Ứng dụng của Robot toạ độ trụ khi cần hoạt động của Robot có tầm với xa hoặc Robot phục vụ cho nhiều máy trong một
hệ thống sản xuất với bán kính nhỏ
Trong
các phần trước chúng ta đã tìm hiểu không gian hoạt động của hệ trục toạ độ trụ, để di chuyển cánh tay theo hướng Y
thì phải có nhiều trục hoạt động. Vị trí của Robot dạng này được thông qua 2 chuyển động quay quanh trục (Z, Y) và
một chuyển động tịnh tiến tạo bán kính quĩ đạo R theo phương
hướng tâm trục đứng (hình 2.9)
Các trục của hầu hết Robot này đều được truyền động bởi khí nén, thủy lực hoặc
điện
với hệ thống điều khiển hồi tiếp.
Ưu điểm:
Khả
năng hướng theo chiều ngang dài.
Không
gian hoạt động lớn, có thể gấp lại khi không hoạt động.
Khả
năng cho phép bệ dụng cụ hướng tới trong những vùng không gian kín hay vượt qua vật cản.
Nhược điểm:
Độ
linh hoạt không cao như robot tọa độ góc.
Giá
thành cao.
Hình
2.9: Robot hệ tọa độ
cầu và không gian làm việc
Đây là hệ tọa động thường
được dùng hơn cả, 3 chuyển động cơ bản được thực hiện
bởi 3 góc xoay: góc α, β1 và góc β2 … trong hệ tọa độ góc (hình 2.10). Ngoài các góc xoay đã kể robot còn có thể
thực hiện góc lắc bàn tay, quay cổ tay…
Hình
2.10: Robot hệ tọa độ
góc và không gian làm việc
Tất
cả phần cánh tay đều nằm trên mặt phẳng thẳng đứng nên khi tính toán cơ bản đều là bài toàn phẳng. Khi mặt phẳng
này quay đi một góc α, bàn kẹp có thể đạt tới vị trí bất kỳ trong vùng làm việc.
Ưu điểm nổi bật của robot
này:
Gọn nhẹ
Linh hoạt
Vùng
thao tác lớn so với kích thước của bản thân
robot
Tốc
độ làm việc tương đối cao.
Trong số các các loại robot hoạt động theo hệ tọa độ phỏng sinh có các loại robot Puma
của hãng Unimation
- Nokia (Mỹ - Phần Lan); Kuka (Đức); Tosman,
Mitsubishi (Nhật)…
Nhược điểm cơ bản của robot hệ tọa độ góc là khả năng mang tải không cao so với các robot tọa độ đề các.
Được
ra đời vào những năm 80 tại Nhật Bản, robot SCARA (Selectively Complice Assembly Robot Arm) với thế mạnh
chuyên về lắp ráp các chi tiết, board mạch điện tử… Cấu trúc động học của robot này cũng có thể xem như thuộc
hệ tọa độ phỏng sinh với các trục
quay của các khớp động đều thẳng đứng.
Hình 2.11 thể hiện một robot SCARA với 3 chuyển
động cơ bản và vùng không
gian hoạt động của nó:
Chuyển
động quay do 2 khớp xoay quanh 2 trục thẳng đứng góc α1, α2
Chuyển
động tịnh tiến theo chiều trục thẳng đứng đoạn L (thường dịch chuyển không lớn)
Ưu điểm cơ bản của robot
này là chúng có thể chuyển động với tốc độ cao, linh
hoạt và độ chính xác lập lại cũng rất cao (0,025mm).
Tuy nhiên
nhược điểm chính là vùng không gian hoạt động không
lớn. Do những đặc tính cơ bản
trên loại robot này thường được dùng cho việc lắp ráp, nhất là lắp ráp các board mạch điện tử.
Hình
2.11: Robot SCARA và
không gian làm việc
1.7 Giải thích các đặc điểm thiết kế cổ tay
Đây
là khớp giữa cánh tay dưới và tay gắp hay cơ cấu chấp hành cuối được gọi là
khớp cổ tay. Thông thường khi thiết kế tay máy, khớp cổ tay được thiết kế là
khớp cầu tức là ba khớp quay giao nhau tại một điểm.
Khớp
cổ tay khá đơn giản khi phân tích động học cho chúng ta vị trí và hướng của tay
gắp. Vì vậy cánh tay robot sẽ tạo ra vị trí và cổ tay của robot tạo ra hướng
cần gắp hay điều khiển.
Đối
với kỹ thuật này ta sử dụng thiết bị cầm tay gắn trực tiếp vào robot dùng để
điều khiển hướng đi tới – lui – trái – phải và dừng hoạt động.
Đối
với kỹ thuật này ta sử dụng các thiết bị cảm ứng được gắn xung quanh robot. Mỗi
thiết bị cảm ứng sẽ có chức năng nhận biết line hay nền để từ đó có thể điều
khiển robot di chuyển theo các line đã được định trước.
So
với hai kỹ thuật trên, kỹ thuật này ta sử dụng một camera gắn trực tiếp vào
robot dùng để thu nhận hình ảnh, sau đó những hình ảnh này được gửi về máy tính phân tích và xử lý. Sau khi xử lý xong máy tính tìm
được đường đi và điều khiển robot di chuyển theo đường đi này. Quá trình thu nhận ảnh và tìm đường đi cho robot được lặp đi lặp lại cho đến khi robot đi được đến đích.
Robot
tự hành là một thành phần có vai trò
rất quan trọng trong ngành robot học. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các hệ thống tự động hóa, robot tự hành ngày một đƣợc hoàn thiện và càng cho
thấy lợi ích của nó trong
công nghiệp và sinh hoạt. Một vấn đề
rất được quan tâm khi nghiên cứu về robot tự hành là làm thế nào để robot biết được vị trí nó đang đứng và có
thể di chuyển tới một vị trí đích, đồng thời có thể tránh được các chướng ngại vật trên đường đi.
Tiềm
năng ứng dụng của robot tự hành hết sức rộng lớn. Có thể kể đến robot vận chuyển vật liệu, hàng hóa trong
các tòa nhà, nhà máy, cửa hàng, sân bay và thưviện; robot do thám; robot khám phá
không gian, di chuyển trên hành tinh …
1.8.3 Kỹ thuật tìm đường đi của robot
a) Kỹ thuật điều khiển
bằng thiết bị cầm tay
Robot
điều khiển bằng tay thường dùng để điều khiển các động cơ.
Việc
điều khiển động cơ bao gồm các chức năng sau:
+
Điều khiển động cơ quay ngược (robot lùi
)
+ Điều
khiển động cơ quay xuôi (robot
tiến )
+
Dừng động cơ (dừng robot)
Thông
thường là thiết kế một mạch điều
khiển sử dụng các nút bấm để đóng mở các relay, mạch rất đơn giản và hiệu quả. Tuy nhiên, làm như vậy sẽ
không thẩm mỹ và bất tiện.
Robot
điều khiển bằng tay chia làm 2 loại :
* Điều khiển từ xa
bằng hồng ngoại
Nếu dùng các mạch thu phát hồng ngoại thông thường thì
tính ổn định không cao, tốt nhất nên dùng vi xử lí để thu phát theo tần số riêng.
* Điều khiển qua dây cáp
Điều
khiển qua dây cáp mang tính ổn định rất cao.
b) Kỹ thuật dùng thiết bị
cảm ứng
Robot
dò đường là loại robot có thể đi
theo 1 đường vẽ hay có thể là một đường
được quy định nào đó hoặc trên các đường line được quy định như
các cuộc thi robocon...
Nguyên
lý hoạt động của robot dò đường là các biến thể đặc biệt của robot hướng sáng.
Sở dĩ nói như vậy là do chúng có cùng nguyên tắc hoạt động là sử dụng cảm biến
quang điện (quang trở hoặc diode hồng ngoại) để so sánh cường độ sáng từ đó
điều chỉnh hướng đi thích hợp, đây cũng là các quang trở dùng để dò đường (dò
line).
Khi
cảm biến bên trái gặp đường vẽ đen,
động cơ bên phải chậm lại, vì vậy robot sẽ hướng sang trái, và ngược
lại.
Khi
cả 2 cảm biến không gặp đường vẽ thì tốc độ quay của 2 động cơ sẽ ngang nhau vì
vậy robot sẽ đi thẳng.
c) Kỹ thuật dùng xử lý ảnh
Kỹ thuật dò biên
Xuất
phát từ định nghĩa toán học của biên người ta thường sử dụng 2 phương pháp phát
hiện biên sau :
* Phương pháp xác định biên trực tiếp
Phương
pháp này nhằm làm nổi biên dựa vào sự biến thiên về giá trị độ sáng của
điểm ảnh. Kỹ thuật chủ yếu dùng phát hiện biên ở đây là kỹ thuật đạo hàm. Nếu lấy đạo hàm bậc nhất của ảnh ta có
phương pháp Gradient; nếu lấy đạo hàm bậc hai ta có kỹ thuật Laplace. Hai
phương pháp trên được gọi là phương
pháp dò biên cục bộ, ngoài ra người ta
còn sử dụng phương pháp “đi theo đường bao” dựa theo nguyên lý qui hoạch hoạt
động và được gọi là phương pháp dò biên tổng thể.
* Phương pháp xác định biên gián tiếp
Là
quá trình phân vùng dựa vào phép xử lý kết cấu đối tượng, cụ thể là
dựa vào sự biến thiên nhỏ và đồng đều độ sáng của các điểm ảnh thuộc
một đối tượng. Nếu các vùng của ảnh được xác định thì đường phân ranh giữa các
vùng đó chính là biên ảnh cần tìm.
Việc phát hiện biên và phân vùng đối tượng là
hai bài toán đối ngẫu. Từ phát hiện biên ta có thể tiến hành phân lớp
đối tượng, như vậy là đã phân vùng được ảnh. Và ngược
lại, khi đã phân vùng được ảnh nghĩa là đã phân lập được thành các đối tượng,
từ đó có thể phát hiện được biên cần tìm.
Tuy
nhiên, phương pháp tìm biên trực tiếp thường sử dụng có hiệu quả vì ít chịu ảnh
hưởng của nhiễu. Song nếu sự biến thiên độ sáng của ảnh là không cao thì khó có
thể phát hiện được biên, trong trường hợp này việc tìm biên theo phương pháp
trực tiếp tỏ ra không đạt được hiệu quả tốt. Phương pháp tìm biên gián tiếp dựa
trên các vùng, đòi hỏi áp dụng lý thuyết về xử lý kết cấu đối tượng phức tạp,
vì thế khó cài đặt, song đạt hiệu quả cao khi sự biến thiên về cường độ sáng là
nhỏ.
*Qui trình phát hiện biên
Bước 1: Khử nhiễu ảnh
Vì
ảnh thu nhận thường có nhiễu, nên bước đầu tiên là phải khử nhiễu, việc khử nhiễu được thực hiện bằng các kỹ thuật
khử nhiễu khác nhau.
Bước 2: Làm nổi biên
Tiếp
theo là làm nổi biên bởi các toán tử đạo hàm
Bước 3: Định vị điểm biên
Vì
các kỹ thuật làm nổi biên có hiệu ứng phụ là tăng nhiễu, do vậy sẽ có một số
điểm biên giả cần loại bỏ.
Bước 4: Liên kết và trích chọn biên
Như
đã nói, phát hiện biên và phân vùng ảnh là một bài toán đối ngẫu, vì thế cũng
có thể phát hiện biên thông qua việc phân vùng ảnh.
a) Kỹ thuật điều khiển
bằng tay
* Ưu điểm
Robot
di chuyển bằng bộ điều khiển tay là một trong loại robot thi công đơn giản
nhất, chi phí đầu tư thấp, di chuyển linh hoạt theo sự điều khiển, có thể có
nhiều tính năng làm được nhiều việc thay con người.
* Khuyết điểm
Robot
di chuyển bằng bộ điều khiển có khuyết điểm lớn nhất là còn phụ thuôc vào sự
điều khiển của con người, không thay thế được con người, không tự di chuyển
được do vậy robot di chuyển bằng bộ điều khiển chỉ hoạt động được khi có con
người can thiệp.
b) Kỹ thuật dò line bằng
thiết bị cảm ứng
* Ưu điểm
Là
một robot tự vận hành một cách tự
động, giá thành tương đối trung bình không cao, có thể dùng các cảm biến thông thường cũng có thể dò đường
được.
Được
ứng dụng nhiều cho các cuộc thi robocon, có khả năng thay thế con người làm
việc trong phạm vi nhỏ.
Có
khả năng tự động cua trái, cua phải một cách linh hoạt.
* Khuyết điểm
Tuy
là một robot
di chuyển tự động nhưng chỉ di chuyển trên mặt phẳng
có các đường line quy định của nhà thiết kế.
Giá
thành không cao nhưng không được ứng dụng rộng rãi, không di chuyển được trên
các mặt phẳng khác.
Không
thông minh, chỉ di chuyển được quảng đường đã được qui định.
c) Kỹ thuật tìm đường
đi bằng phương
pháp xử lý ảnh
* Ưu điểm
Chi
phí chế tạo robot ít tốn kém hơn so
với hai kỹ thuật dùng thiết bị điều
khiển và dùng thiết bị cảm ứng, kỹ
thuật này chỉ sử dụng camera để thu nhận
hình ảnh để tìm đường, không cần gắn thêm vào robot các thiết bị cảm ứng để dò đƣờng.
Theo
phương pháp xử lý ảnh, khi hành lang thay đổi (dài, ngắn) thì không cần chỉnh
sửa lại chương trình, khác hơn so với kỹ thuật dò line dùng thiết bị cảm ứng.
* Khuyết điểm
Theo
phương pháp xử lý ảnh, kết quả di chuyển robot bị tác động bởi các yếu tố:
camera, điều kiện về môi trường (sáng hay tối). Chất lượng
camera càng tốt sẽ thu nhận hình ảnh tốt thì robot di chuyển đạt được độ chính
xác cao hơn.
Ngày nay robot công nghiệp đã được phát triển rất đa dạng từ hình dáng, chủng
loại, khả năng thực hiện những công việc khác nhau… Dựa vào những đặc tính đó, có nhiều cách phân loại robot công nghiệp.
Robot có 4, 5 hoặc 6 bậc tự do
Dựa vào 2 dạng chuyển động cơ bản làm chuẩn:
Chuyển động tịnh tiến theo các hướng
X, Y, Z trong không
gian 3 chiều thông thường
tạo nên những khối hình hộp có góc cạnh gọi là Prismatic, ký hiệu là P.
Chuyển động quay quanh các trục X, Y, Z gọi là Rotation, ký hiệu là R.
Với 3 dạng chuyển động cơ bản trên, robot sẽ hoạt động
trong các trường công tác với các hình
khối tùy thuộc vào tổ hợp P và R
P P P Vùng hoạt
động là khối lập phương (Cubical)
R P P Vùng hoạt
động là khối trụ (Cylindrical)
R R P Vùng hoạt
động là khối cầu (Spherical)
R R R Vùng hoạt
động là khối cầu (Revolute)…
Robot điều khiển tự động
Robot điều khiển bằng tay
Robot quan sát (vision)…
Robot điều khiển theo chương trình cứng (tay gắp, nâng hàng…)
Robot điều khiển theo chương trình linh hoạt
Robot điều khiển thông
minh
Điều
khiển điểm (Point to point)
Điều
khiển quĩ đạo liên tục (Continous path control)
Điều
khiển vòng hở
Điều
khiển vòng kín
Robot
hoạt động theo tọa độ vuông góc
Robot
hoạt động theo tọa độ trụ
Robot
hoạt động theo tọa cầu
Tay
máy phỏng sinh (tọa độ góc)
Người ta phân ra các loại
Robot cấp thoát phôi.
Robot vận chuyển.
Robot đóng gói…
Robot sơn
Robot hàn
Robot lắp ráp…
1.10 Thu thập thông tin phản hồi cho hệ thống rô bốt và
điều khiển đơn giản
Các cấu trúc cơ khí của
một robot phải được điều khiển để thực hiện nhiệm vụ của chúng. Quá trình điều
khiển một robot bao gồm ba giai đoạn - thu thập dữ liệu từ cảm biến, xử lý, ra
lệnh thực hiện.
Các cảm biến cung
cấp thông tin về môi trường hoặc các trong nội bộ robot (ví dụ như vị trí của
các khớp hoặc cơ cấu chấp hành đầu cuối). Những thông tin này sau đó được xử lý
để tính toán các tín hiệu điều khiển phù hợp với thiết bị chấp hành để di
chuyển các bộ phận cơ khí.
Giai đoạn xử lý có độ phức tạp khác nhau. Ở mức độ phản
ứng, các thông tin cảm biến thô sẽ được chuyển thành tín hiệu điều khiển trực
tiếp ra thiết bị chấp hành. Bộ tổng hợp cảm biến trước
tiên được sử dụng để ước tính các thông số có liên quan (ví dụ vị trí tay gắp
của robot) từ dữ liệu cảm biến.
Một
tác vụ tức thời (như di chuyển tay gắp theo một hướng nhất định) được suy ra từ
những tính toán này. Các kỹ thuật từ lý thuyết điều khiển sẽ
chuyển đổi tác vụ này thành các lệnh đưa đi điều khiển các thiết bị chấp hành.
Ở
quy mô thời gian dài hơn hoặc với nhiệm vụ phức tạp hơn, các robot có thể cần
phải được trang bị một mô hình "nhận thức". Mô hình nhận thức biểu
thị cho cách thức robot tương tác với thực tại. Các nhận dạng mẫu và thị giác
máy tính có thể được sử dụng để theo dõi các đối tượng.
Kỹ
thuật lập bản đồ có thể được sử dụng để xây dựng bản đồ thực tế. Cuối cùng,
cách thức chuyển động và các kỹ thuật trí tuệ nhân tạo có thể được
sử dụng để tìm ra cách để thực thi. Ví dụ, một robot có thể tìm ra cách để hoàn
thành một nhiệm vụ mà không va chạm với chướng ngại vật, hoặc bị ngã..
Các
hệ thống điều khiển có mức độ độc lập khác nhau.
˗
Tương tác trực tiếp được sử dụng cho các thiết bị điều
khiển bằng tay qua dây hoặc từ xa, con người có quyền điều khiển gần như hoàn
toàn chuyển động của robot.
˗
Chế độ hỗ trợ từ nhân viên vận hành, nhân viên vận
hành ra lệnh robot thực hiện các công việc ở mức bình đến cao cấp, các robot tự
động tìm ra cách để hoàn thành mệnh lệnh.
˗
Robot tự hành có thể di chuyển trong thời gian dài mà
không cần sự tương tác của con người. Cấp độ cao hơn của tự chủ không nhất
thiết đòi hỏi khả năng nhận thức phức tạp hơn.
˗
Ví dụ, robot trong nhà máy lắp ráp là hoàn toàn độc
lập, nhưng hoạt động trong một mẫu hình cố định.
˗
Một phân loại khác có tính đến sự tương tác giữa người
điều khiển và các chuyển động của máy móc.
˗
Thao tác từ xa.
Người vận hành điều khiển từng động tác một, mỗi thay đổi của máy được xác định
bởi người vận hành.
˗
Giám sát. Người vận hành xác định cách di chuyển hoặc
các thay đổi vị trí và máy tự xác định cách thức di chuyển của bộ phận chấp
hành.
˗
Tự chủ về công việc. Nhân viên vận hành chỉ xác định
nhiệm vụ và các robot tự mình hoàn thành nhiệm vụ.
˗
Hoàn toàn tự chủ. Máy sẽ tạo ra và hoàn thành tất cả
nhiệm vụ của mình mà không cần sự tương tác của con người.
Lợi ích:
Hiệu
suất cao, chất lượng được cải thiện, hiệu quả cao, an toàn, tiện lợi, tiết kiện
điện năng, lặp lại, chính xác, tốc độ, sử dụng trong các vùng nhiễu
Kết quả:
Phụ
thuộc vào công việc, chi phí cơ bản, giá biến đổi, không gian sẵn có, chi phí
bảo trì, hao hụt sản xuất do hư hỏng, chi phí phát sinh, an toàn
-
Chuẩn bị nguồn lực, xem xét tính ứng dụng và tính khả thi
-
Công việc, trình bày các chi tiết, thiết bị gia công, vận hành máy móc, kiểm
soát chất lượng
-
Vận hành, hiệu chỉnh lỗi, chạy thử, kiểm tra chất lượng
-
Vận hành quy trình thí điểm, vận hành song song với pin thủ công, thực hiện các
thao tác cuối cùng
Nhìn
bề ngoài, robot của các nhà sản xuất khác nhau có vẻ rất giống về khả năng. Tìm
hiểu sâu hơn sẽ cho thấy sự khác nhau về độ tin cậy của phần cứng, tuổi thọ,
thực hiện các chức năng an toàn, giao diện người vận hành và phương pháp lập
trình. Không quan tâm đến kích thước và độ phức tạp, hệ thống robot đầu tiên
của bạn thường được xem xét kỹ lưỡng để thiết lập hướng cho mọi ứng dụng trong
tương lai.
Robot
phù hợp nhất cho ứng dụng với công cụ được thiết kế hợp lý và mạnh mẽ, trong
một khoang được thiết kế an toàn và thân thiện với người vận hành vẫn có thể
phá hỏng hoạt động của bạn nếu nó không được lập trình với sự chú ý tới từng
chi tiết.
Giao
diện người vận hành phải rõ ràng và dễ hiểu để người vận hành có thể nhanh
chóng tự tin sử dụng hệ thống sau khi được đào tạo. Để hạn chế khả năng cài đặt
và sự va chạm không phù hợp, bất kỳ ở đâu, hệ thống cần phải “tự ý thức” về môi
trường công việc thông qua việc sử dụng một cảm biến và mã hóa trên các công
cụ, đồ gá lắp hay các chi tiết cố định.
Các
hoạt động lặp lại và phản ứng thường cồng kềnh và chậm nếu được thực hiện qua
bảng người vận hành-sử dụng hợp lý nút ấn/điều khiển trên bảng điều khiển được
thiết kế hợp lý thường là một giải pháp tốt hơn.
Robot
nhanh, chính xác, mạnh mẽ và cũng im lặng đến đáng sợ, điều đó đồng nghĩa với
việc robot có khả năng thực hiện công việc, nhưng cũng tiềm ẩn khả năng gây ra
những thiệt hại nghiêm trọng. Khai thác những lợi thế của robot một cách an
toàn mà không đe dọa cuộc sống con người là mục tiêu của nhà sản xuất robot,
các nhà tích hợp đủ khả năng và có uy tín và cũng là mục tiêu của mọi người sử
dụng cuối.
Tuy
người máy có thể giúp con người rất nhiều trong những công việc mà con người
không thể làm nhưng trong khi sử dụng người máy đồng thời cũng xảy ra những tai
nạn đáng tiếc. Tháng 9 năm 1978 ở Nhật
Bản, đã xảy ra một vụ việc mà người máy làm nghề cắt gọt đã cắt chết
một người. Vụ này đã trở thành lần đầu tiên người máy đã trở thành kẻ sát nhân
trong lịch sử được ghi nhận. Năm 1981
vẫn ở Nhật Bản cũng đã xảy ra vụ tương tự.
Nguyên nhân
Nhiều
nhà chuyên môn sau khi nghiên cứu đã nhận xét. Việc người máy bỗng trở nên mất
kiểm soát là do các linh kiện trong hệ thống bị bất ngờ gặp trục trặc hoặc hệ
thống điện tử bị nhiễm sóng điện tử nặng. Vì sự việc xảy ra quá nhanh nên khó
lòng kiểm soát được vụ việc.
Biện pháp
Sau
những tai nạn, con người càng thận trọng hơn với việc sử dụng người máy. Ở
nhiều nước hiện đại, đã sản xuất và sử dụng người máy, đã đặt ra các luật lệ và
quy tắc an toàn khi sử dụng hay sản xuất người máy. Đồng thời tăng cường các hệ
thống của người máy nhằm hạn chế tối đa các bộ phận bị trục trặc.
Không
dừng ở đó, mối lo ngại về người máy quá thông minh có thể làm phản và tạo ra
một cuộc chiến tranh khổng lồ đã được tưởng tượng như trong phim Kẻ hủy diệt vì
thế nhà văn viễn tưởng A-Xi-Lốp đã ra 3 luật để nhằm đảo bảo an toàn cho loài
người.
-
Điều 1: Trong bất cứ trường hợp nào người máy cũng không được gây thương vong
cho con người, hoặc thấy người lâm nạn mà khoanh tay đứng nhìn.
-
Điều 2: Trong mọi trường hợp, người máy phải phục tùng mệnh lệnh của con người,
nhưng khi mệnh lệnh đó trái với điều 1 thì cho phép không thi hành.
-
Điều 3: Dưới tiền đề không làm trái với quy định ở điều 1 và điều 2, người máy
có quyền bảo vệ bản thân mình.